Bài Viết Mới

QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT NHẸ HƠN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ (ĐIỀU 54 BLHS 2015)

     Điều 54 Bộ luật hình sự 2015 quy định:

1. Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ Luật này.

2. Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.

3. Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì toà án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.

 

                                                  

Khi quy định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS cần thực hiện đúng các quy định tại Điều 54 BLHS và cần chú ý các điểm sau đây:

+ Quy định “Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật” được áp dụng trong trường hợp điều luật có từ hai khung hình phạt trở lên và người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự không phải theo khung hình phạt nhẹ nhất. Nếu các khung hình phạt của điều luật được sắp xếp theo thứ tự 1, 2,3,… và từ nhẹ nhất đến nặng nhất thì theo quy định này khi có từ hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS trở lên, toà án có thể quy định một hình phạt trong khung hình phạt của khoản 1, nếu người phạm tội bị xét xử theo khoản 2; toà án chỉ có thể quyết định một hình phạt trong khung hình phạt của khoản 2 nếu người phạm tội bị xét xử theo khoản 3…

Ví dụ: một người phạm tội trộm cắp tài sản và có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS 2015 việc áp dụng quy định trên như sau:

Nếu người phạm tội bị xét xử theo khoản 2 Điều 173 BLHS 2015 thì toà án có thể quyết định một hình phạt dưới 2 năm tù, nhưng phải trong khung hình phạt của khoản 1, cụ thể là chỉ được phạt từ 6 tháng tù đến dưới 02 năm tù hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.

Nếu người phạm tội bị xét xử theo khoản 3 Điều 173 thì toà án có thể quyết định một hình phạt dưới 07 năm, nhưng phải trong khung hình phạt của khoản 2, từ 02 năm đến dưới 07 năm.

Nếu người phạm tội bị xét xử theo khoản 4 Điều 173 thì toà án có thể quyết định một hình phạt tù dưới 12 năm, nhưng phải trong khung hình phạt của khoản 3, cụ thể là từ 07 năm đến dưới 12 năm.

+ Khi áp dụng quy định “trong trường hợp điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất của điều luật, thì toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hoặc chuyển sang một hình phạt khác nhẹ hơn”cần chú ý:

Đối với hình phạt tù có thời hạn, thì theo quy định tại Điều 38 BLHS 2015, mức tối thiểu của loại hình phạt này là 03 tháng, do đó, mọi trường hợp khi quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật quy định mức thấp nhất của khung hình phạt là trên 03 tháng tù thì không được quyết định mức hình phạt dưới 03 tháng, nếu mức thấp nhất của khung hình phạt là 3 tháng tù thì chỉ có thể chuyển sang một hình phạt khác nhẹ hơn.

Ví dụ: một người buôn bán hàng giả tương đương với số lượng hàng thật có giá trị 40 triệu đồng thuộc khoản 1 Điều 192 BLHS 2015, có hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS 2015 trở lên, thì đối với họ chỉ có thể quyết định một hình phạt tù từ 03 tháng đến dưới 01 năm hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn (cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ).

Ví dụ 2: nếu một người cản trở người khác ly hôn bằng cách hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần, đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm theo quy định tại Điều 181 BLHS 2015, có hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 điều 51 BLHS trở lên, thì đối với họ không đươc quyết định một hình phạt tù dưới 03 tháng (mức thấp nhất của loại hình phạt tù có thời hạn) mà chỉ có thể xử phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 02 năm.

+ Đối với hình phạt cải tạo không giam giữ thì theo quy định tại Điều 36 BLHS 2015, mức tối thiểu của hình phạt này là 06 tháng. Không được quyết định mức hình phạt cải tạo không giam giữ dưới 06 tháng.

+ Đối với hình phạt tiền, theo quy định tại Điều 35 BLHS 2015 thì mức tối thiểu là 01 triệu đồng. Không được quyết định mức hình phạt tiền dưới 01 triệu đồng, nếu mức thấp nhất khung hình phạt là 01 triệu đồng thỉ chỉ có thể chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn là cảnh cáo.

+ Theo quy định tại điều 54 BLHS 2015 thì việc quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS chỉ áp dụng đối với hình phạt chính mà không áp dụng với hình phạt bổ sung, bởi vì đối với hình phạt bổ sung không thể có nhiều khung hình phạt, không có quy định một khung hình phạt, không có khung hình phạt nhẹ nhất và không quy định việc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn.

Thực tiễn xét xử:

Bản án số 10/2021/HS-ST ngày 03-03-2021 của TAND huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn, xét xử bị cáo Phan Văn H về tội cố ý gây thương tích theo điểm đ khoản 2 Điều 134 BLHS, với mức hình phạt từ 02 năm đến 07 năm. Nhưng bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối lỗi, tự nguyện bồi thường thiệt hai và khắc phục hậu quả, phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của bị cáo nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ tại điểm b, e, s khoản 1 Điều 51 BLHS. Toà án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo 02 năm tù giam nhưng cho hưởng án treo.

Hay Bản án số 15/2021/HS-ST ngày 04/3/2021 của TAND huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau, xét xử bị cáo Nguyễn Văn Đ về tội Cố ý gây thương tích tại điểm đ khoản 2 Điều 134 BLHS có mức hình phạt từ 02 năm đến 07 năm tù giam. Nhưng bị cáo đã thành thật khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu, đã khắc phục hậu quả, được hưởng hai tình tiết giảm nhẹ tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 BLHS nên Hội đồng xét xử xem xét áp dụng khoản 1 Điều 54 BLHS. Bị cáo bị xử phạt 01 năm tù giam, tức dưới khung hình phạt tại khoản 2 nhưng không thấp hơn mức thấp nhất của khung liền kề là 06 tháng.

Mọi thắc mắc pháp lý xin liên hệ:

TƯ VẤN PHÁP LUẬT MIỄN PHÍ – Luật sư quận 6

Luật sư Trần Thị Hoà

Hotline: 0973.520.805

Email: cvtranhoa@gmail.com