Bài Viết Mới

Chồng bán tài sản chung mà vợ không đồng ý

TÌNH HUỐNG:

 

Ông Hồ Quân và Bà Trần Anh là vợ chồng hợp pháp, có tài sản chung là một căn nhà tại thửa đất số 30, tờ bản đồ số 17 tại thành phố Đà Nẵng, được UBND cấp GCNQSDĐ mang tên hai vợ chồng ông bà. Tuy nhiên, ông Quân nợ nần, cờ bạc nên có vay tiền của ông Nguyễn H, số tiền là 120 triệu. Ông H và ông Quân đã tự làm thủ tục uỷ quyền từ vợ chồng ông Q, bà A cho ông H và ông Nguyễn H đã sử dụng Hợp đồng uỷ quyền số 2024 ngày 26/4/2010 để tiến hành chuyển nhượng Quyền sử dụng đất trên cho ông Thái C theo Hợp đồng chuyển nhượng số 4527 ngày 15/7/2010 tại VPCC T.

Ông Thái C đã thế chấp quyền sử dụng đất trên cho Ngân hàng TMCP S để bảo đảm cho khoản vay của công ty thiết bị điện tử T.

Đến năm 2013, toàn bộ diện tích nhà đất trên được thu hồi để làm đường giao thông nên được bồi thường 1,8 tỷ đồng và được phân 3 lô đất tái định cư.

Đến ngày 04/3/2013, do công ty T không có khả năng trả nợ nên ngân hàng S đã khởi kiện tại TAND quận, yêu cầu công ty T trả nợ gốc và lãi là 2,3 tỷ đồng. Nếu không đủ khả năng thanh toán thì yêu cầu xử lý tài sản thế chấp để trả nợ.

Bà Anh sau khi biết được sự việc đã yêu cầu tham gia vụ án nêu trên với tư cách người có quyền và nghĩa vụ liên quan, yêu cầu huỷ Hợp đồng uỷ quyền và Hợp đồng chuyển nhượng do bà không tham gia thực hiện, dấu vân tay, chữ viết trong đó không phải của bà.

 

Phân tích tình huống:

Thực tế là trong quá trình ngân hàng khởi kiện, ngân hàng và công ty T đã hoà giải thành theo Quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự với nội dung: Công ty T đồng ý trả số nợ gốc và lãi là 1,8 tỷ đồng. Trả một lần và vào ngày 15/8/2013. Nếu công ty không trả thì sẽ xử lý tài sản thế chấp theo quy định.

Tuy nhiên trong giai đoạn thi hành án, bà Anh là người có quyền và nghĩa vụ liên quan không chấp nhận nên đã đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm.

Theo Quyết định giám đốc thẩm số 01/2015/KDTM-GĐT của uỷ ban thẩm phán TAND thành phố Đà Nẵng thì huỷ toàn bộ Quyết định công nhận hoà giải thành trên và xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm.

Thông qua quá trình điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra và lời khai, làm việc tại Toà án thì xác định ông Quân là người thuê người giả vợ mình (bà Anh) để đến VPCC ký Hợp đồng uỷ quyền. Ông Q đã làm đơn cớ mất CMND, sai đó đến công an phường xác nhận, và sử dụng đơn này để làm Hợp đồng uỷ quyền.

Vì thế Toà án cấp sơ thẩm nhận định Hợp đồng uỷ quyền và Hợp đồng chuyển nhượng là vô hiệu do giả tạo. Vậy giải quyết hậu quả khi hợp đồng vô hiệu như thế nào khi có quá nhiều người có quyền và nghĩa vụ liên quan trực tiếp?

Xét về lỗi dẫn đến hợp đồng vô hiệu bao gồm:

+ Ông Hồ Quân: thuê người giả vợ mình đi công chứng, làm đơn cớ mất CMND rồi dán ảnh người được thuê vào, phối hợp với ông Nguyễn H để thực hiện việc uỷ quyền cho ông H mà không có sự đồng ý của bà Anh, trong khi tài sản này là tài sản chung của vợ chồng.

+ Ông Nguyễn H: biết rõ việc làm của ông Quân nhưng vẫn cùng ông Quân nhận uỷ quyền rồi tiến hành chuyển nhượng tiếp cho ông Thái C.

+ Văn phòng công chứng: vi phạm các quy định về công chứng hợp đồng uỷ quyền khi người đi công chứng không có CMND hoặc giấy tờ tuỳ thân khác vì giấy cớ mất CMND không phải là loại giấy tờ chứng minh về nhân thân của chủ thể tham gia giao dịch.

Cần xem xét rõ tỷ lệ lỗi của những người tham gia giao dịch và có mức bồi thường phù hợp.

Về số tiền bồi thường và các lô đất tái định cư thì ai có quyền nhận?

Hệ qủa của hợp đồng vô hiệu là các bên hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận nên Quyền sử dụng đất vẫn thuộc quyền của bà Anh và ông Quân. Ông bà có thể được liên hệ cơ quan bồi thường để nhận số tiền bồi thường và các lô đất tái định cư nếu toà án tuyên hợp đồng uỷ quyền, chuyển nhượng, bảo lãnh vô hiệu.

Về mối quan hệ hợp đồng tín dụng của ngân hàng S và công ty T, ông Thái C: toà án cấp sơ thẩm có tuyên xử buộc công ty t phải có nghĩa vụ thanh toán số tiền đã vay. Tuy nhiên do hơp đồng bảo lãnh thế chấp tài sản giữa ông Thái C và ngân hàng vô hiệu nên ông Thái C có nghĩa vụ phải trả nợ nếu Công Ty T không thanh toán được.

 

Nếu có bất kì thắc mắc pháp lý nào có thể liên hệ:

Luật sư Trần Thị Hoà

Hotline: 0973.520.805

Email: cvtranhoa@gmail.com