Bài Viết Mới

Tài sản cha mẹ tặng cho hoặc thừa kế trong thời kỳ hôn nhân là tài sản riêng hay tài sản chung của vợ chồng?

Theo quy định tại Điều 33 Luật HNGĐ 2014 thì “Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung.

Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.”

Vậy đối với những tài sản được tặng cho chung hoặc những tài sản được tặng cho riêng nhưng vợ chồng thoả thuận là tài sản chung thì tài sản được tặng cho là tài sản chung.

Đối với những trường hợp tài sản được tặng cho riêng, thừa kế riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng thì được xác định là tài sản riêng của vợ chồng. Để hiểu hơn về những quy định này, chúng ta xét ví dụ sau:

Ông Phạm Văn Hết và bà Nguyễn Thị Lang kết hôn với nhau từ năm 1982, tại UBND phường Thống Nhất, thành phố Biên Hoà. Quá trình sống schung có phát sinh mâu thuẫn và bắt đầu ly thân từ năm 2012. Trong thời kì hôn nhân, ông Hết được nhận thừa kế từ cha mẹ diện tích 137,2 m2 thuộc thửa đất số 337 tờ bản đồ số 13. Ông Hết và bà Lang đã xây dựng nhà ở trên đất có diện tích 63,22 m2. Ngày 15/5/2009, UBND thành phố Biên Hoà đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và nhà ở cho ông Phạm Văn Hết và bà Nguyễn Thị Lang là chủ sở hữu nhà ở diện tích 63,22 m2, đất ở diện tích 137,2 m2 thuộc thửa đất số 337 tờ bản đồ số 13 tại địa chỉ 3/10 Phường Thống Nhất, Thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai.

Vậy đối với diện tích quyền sử dụng đất ông Hết được nhận thừa kế từ cha mẹ là tài sản riêng hay tài sản chung của vợ chồng?

UBND thành phố biên hoà đã cấp GCN mang tên cả hai ông bà. Mặc dù, nguồn gốc đất là ông Hết được nhận thừa kế từ cha mẹ, nhưng ông Hết đã tự nguyện đưa tài sản này vào làm tài sản chung bằng việc ông đi kê khai đăng ký tên của ông và bà Lang nên đã được UBND thành phố Biên Hoà cấp GCN đất ở năm 2009.

Tình huống trên, khi được nhận thừa kế ông Hết được thừa kế riêng và giữa hai vợ chồng ông bà cũng không có văn bản nào thoả thuận về việc đưa tài sản này thành tài sản chung của vợ chồng. Tuy nhiên, trong quá trình đăng ký quyền sử dụng đất, ông Hết đã hoàn toàn tự nguyện đăng ký GCN mang tên cả hai vợ chồng. Do đó, tài sản trên là tài sản chung của vợ chồng. Tuy nhiên khi phân chia tài sản khi vợ chồng ly hôn, Toà án có thể xem xét công sức đóng góp của ông Hết nhiều hơn trong việc tạo lập tài sản chung.